Giáo Phận Hải Phòng Org
1. Sơ lược hình thành Giáo phận Hải Phòng
LỊCH CÔNG GIÁO - GIÁO PHẬN HẢI PHÒNG 2024
LỊCH CÔNG GIÁO - GIÁO PHẬN HẢI PHÒNG 2024
GIÁO PHẬN HẢI PHÒNG 2024 NĂM GIÁP THÌN
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
A. Lược Sử Giáo Phận Hải Phòng
"Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
Mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
Xin mượn lời Thánh Vịnh để tóm lược những nét chính yếu khai sinh giáo phận Hải Phòng, một giáo phận được thành hình từ ân sủng, cùng với mồ hôi nước mắt, máu xương của các thừa sai linh mục, tu sĩ và giáo dân làm nên trang sử của giáo phận Hải Phòng và của Giáo Hội Việt Nam.
Ngày 9-9-1659, với Ðoản Sắc Super Cathedram Principis, Ðức Alexandrer VII (1655-1667) thiết lập ở Việt Nam hai giáo phận: Ðàng Ngoài và Ðàng Trong. Vùng đất Hải Phòng, Hải Dương lúc này đã có những "cơ sở", giáo xứ quan trọng trong giáo phận tiên khởi Ðàng Ngoài như Xứ Ðoài, Xứ Bắc, Kẻ Sặt...
Năm 1679, Ðức Innocens XI (1676-1689) chia giáo phận Ðàng Ngoài làm hai: Ðông Ðàng Ngoài và Tây Ðàng Ngoài, lấy sông Hồng và sông Lô làm ranh giới. Cha Francois Deydier Phan thuộc Hội Thừa Sai Paris, được đặt làm giám mục tiên khởi của giáo phận Ðông Ðàng Ngoài, lúc đó tòa giám mục thường ở Phố Hiến (tên một cảng nằm trên tả ngạn sông Hồng, do nhà Lê mở vào cuối thế kỷ, phía Nam thị xã Hưng Yên ngày nay); sau đời Ðức cha Deydier, tòa giám mục thường đặt ở vùng Bùi Chu, đôi khi ở Kẻ Sặt, Hải Dương.
Theo báo cáo của các cha dòng Tên gửi Ðức cha J. de Bourges những nơi các ngài coi sóc (hiện nay nằm trong các giáo phận Hải Phòng, Bắc Ninh, Hưng Hóa) năm 1668-1707, có số giáo dân như sau: Ðông và An Quảng 3,016; Bắc (Kẻ Noi) 990; Ðoài 6,250.
Ngày 5-9-1848, Ðức Piô IX (1848-1878) ban Chiếu thư chia tỉnh Nam Ðịnh và tỉnh Hưng Yên, lập thành giáo phận Trung, phần đất còn lại giữ tên cũ là giáo phận Ðông, do Ðức cha Jeronimo Hermosilla Liêm, OP. giám mục tiên khởi người Tây Ban Nha, coi sóc. Ngày 6-11-1861, ngài tử đạo tại khu Năm Mẫu (Hải Dương). Trong thời Ðức cha Liêm, giáo phận có diện tích đất rộng, lúc này giáo dân đã lên tới con số 45,000, ở rải rác trong 327 xứ, họ, trên tổng số dân là 3 triệu người. Tòa giám mục khi ở Nam Am, khi ở Kẻ Mốt (thuộc Bắc Ninh ngày nay). Giáo phận Ðông đã có các trường Lý Ðoán (Ðại Chủng Viện) và La Tinh (Tiểu Chủng Viện) ở Ðông Xuyên, Kẻ Mốt, Tử Nê.
Ngày 29-5-1883, Ðức Lêô XIII (1878-1889) công bố Chiếu thư lập giáo phận Bắc, một phần tách từ giáo phận Ðông, gồm các tỉnh Hải Dương (bấy giờ gồm cả Kiến An), Quảng Yên và Hải Ninh (tức Mông Cái), và vẫn giữ tên cũ là giáo phận Ðông do Ðức cha José Terrès Hiến coi sóc, tòa giáo mục đặt ở Hải Dương. Hải Phòng khi ấy chưa là sở cha chính, nhưng năm 1880, cha chính Salvador Masso Tế đã xây nhà thờ lớn.
Năm 1890, Ðức cha Hiến dời tòa giám mục ra Hải Phòng, còn sở cha chính chuyển sang Liễu Dinh một thời gian rồi đưa về Kẻ Sặt. Hàng giáo sĩ năm 1892 có Ðức cha Hiến, 32 linh mục triều, 8 thừa sai, 2 cha dòng người Việt, 82 thầy giảng, 20 chủng sinh thần học, 20 chủng sinh triết, 20 tiểu chủng sinh, 281 học sinh trường thử và 41,120 giáo dân.
Ngày 3-12-1924, Tòa Thánh đổi tên giáo phận Ðông theo địa hạt hành chính, nơi đặt tòa giám mục, gọi là giáo phận Hải Phòng, Ðức cha Francisco Ruiz de Azua Minh, OP. (1919-1929) coi sóc.
Ngày 14-1-1953, cha Giuse Trương Cao Ðại, OP. nhận sắc chỉ của Tòa Thánh làm giám mục Hải Phòng và thụ phong tại Hồng Kông. Sau khi về nước nhận giáo phận, ngài xây dựng giáo phận về cả vật chất lẫn tinh thần. Công việc đang thuận lợi thì Ðức cha lại phải di cư vào Nam sau hiệp định Genève (1954).
Ngày 7-5-1955, Tòa Thánh bổ nhiệm linh mục Phêrô Khuất Văn Tạo làm giám quản tông tòa giáo phận Hải Phòng. Ngài được tấn phong giám mục tại nhà thờ Sơn Tây ngày 7-2-1956; ngày 28-4-1956, Ðức tân giám mục chính thức nhận giáo phận Hải Phòng.
Ngày 24-11-1960, Tòa Thánh thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, giáo phận Hải Phòng được nâng lên hàng chính tòa thuộc giáo tỉnh Hà Nội, Ðức cha Phêrô Maria Khuất Văn Tạo được bổ nhiệm làm giám mục chính tòa của giáo phận Hải Phòng. Ðức cha đã cai quản giáo phận trong hơn 21 năm đầy gian khổ vì hầu hết các linh mục và giáo dân của giáo phận đã di cư vào Nam. Ngài mất ngày 19-8-1977. Hai năm sau (1979), giáo phận mới có Ðức cha Giuse Maria Nguyễn Tùng Cương thụ phong giám mục ngày 18-2-1979 lên thay, ngài nhận giáo phận ngày 24-2-1979. Ngài đã trùng tu tòa giám mục, nhà thờ chính tòa và kiến tạo hơn 100 nhà thờ xuống cấp ở các giáo xứ và họ đạo, đào tạo và truyền chức cho hơn 20 linh mục. Ngài qua đời ngày 10-3-1999. Trong thời gian giáo phận trống tòa, Hội đồng Tư vấn Quản trị giáo phận, đứng đầu là linh mục niên trưởng Laurensô Phạm Hân Quynh. Linh mục Ða Minh Nguyễn Chấn Hưng làm giám quản giáo phận cho đến ngày Ðức Thánh Cha bổ nhiệm giám mục Giuse Vũ Văn Thiên làm giám mục chính tòa, ngày 26-11-2002.
Ranh giới: Giáo phận bao gồm toàn bộ thành phố Hải Phòng, tỉnh Hải Dương, tinh Quảng Ninh và một phần nhỏ của tỉnh Hưng Yên.
- Linh mục triều: 43 (02 LM đang du học tại Pháp)
- Linh mục dòng: 2 (Dòng Thánh Thể)
- Chủng sinh đang học tại Ðại chủng viện Hà Nội: 35
Hải Phòng ở giữa các cửa sông của hệ thống sông Lục Ðầu: Bắc có sông Bạch Ðằng mà đoạn trên gọi là sông Kinh Thầy, Ða Bách (Ðá Bạc), dưới là cửa Nam Triệu, giữa là sông Kinh Môn, đổ ra biển bằng Cửa Cấm, đến sông Văn Úc, sông Thái Bình, đến sông Hóa chảy giữa Hải Phòng và Thái Bình.
- Nhà thờ Chính Tòa: xây dựng năm 1880.
- Ðền Thánh Tử Ðạo Hải Dương (hiện nay đã đổ nát, chưa khôi phục được)
(dựa theo Niêm Giám 2005 của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam
và được bổ túc thêm những chi tiết mới
dựa theo thông tin của TGM Hải Phòng ngày 26/03/2007)
Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page
Offenbar hast du diese Funktion zu schnell genutzt. Du wurdest vorübergehend von der Nutzung dieser Funktion blockiert.